Recent Blog post
Hiển thị các bài đăng có nhãn su tich. Hiển thị tất cả bài đăng
Là các vị Thánh với hình tượng nam niên thơ ấu, tinh nghịch, thường phù hộ cho bách gia bác nhân, nhất là các em nhỏ. Sự tích các Cậu thường theo môtip "Các hoàng tử thiên cung" theo lệnh Ngọc Hoàng giáng hạ hộ dân, dẹp giặc, dạy dân nghề nghiệp.... và về trời vào tuổi niên thiếu. Tứ Phủ Thánh Cậu gồm thập nhị vị (mười hai Thánh Cậu). Mười hai là con số tượng trưng bao quát : Thông thường người ta thường hầu các Cậu đại diện:
1. Cậu Hoàng Cả (sắc phục màu đỏ)
2. Cậu Hoàng Đôi (sắc phục màu xanh)
3. Cậu Hoàng Bơ (sắc phục màu trắng)
4. Cậu Hoàng Tư Long thành (sắc phục màu vàng)
5. Cậu Bé (sắc phục màu xanh)
Giá cậu bé là một "giá đồng mở". Người ta quan niệm mỗi bản đền lđều có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng như : Cậu Bé Đồi Ngang, Cậu Bé Phủ Giày, Cậu Bé Sòng v.v.v Trang phục các giá Cậu thường là áo cánh (màu áo đã nói ở trên) đầu vấn khăn đầu rìu, chân quấn xà cạp đi giày thêu, hài thêu. Diễn xướng trong giá Cậu thường là múa hèo, múa gậy, bắn cung,hoặc múa lân v.v. Giá Cậu Bơ Thoải còn có múa chèo đò, giăng lưới bắt cá...
Sự tích tứ phủ Thánh Cậu
Cô Mười Đồng Mỏ, hay Cô Mười Mỏ Ba được thờ ở Đền Mỏ Ba - Huyện Đồng Mỏ - Lạng Sơn. Đền Mỏ Ba là nơi thờ chính là Chầu Mười Đồng Mỏ và Cô Mười Đồng Mỏ.
Cô Mười Đồng Mỏ theo hầu Chầu Mười Đồng Mỏ, có công cùng chầu Mười giúp vua Lê đánh giặc Minh và tiêu diệt đội quân của Liễu Thăng. Thần tích về Cô Mười và Chầu Mười rất ít, hầu như không thấy trong các tài liệu
Theo Văn Cô Mười thì Cô Mười là một thánh cô xinh đẹp " Hình dung nhan sắc ai mà dám đương". Cô luôn miệng cười rất gần gữi: "Cô Mười Nhan sắc miệng cười nở hoa". Cô mặc: "Về đồng mặc áo vàng tươi; đai hoa, khăn thắt đúng người Sơn Trang". Vì thế, người đời và Thánh Mẫu đã phải thốt lên:
Cô Mười đẹp tựa sao sa
Cô đẹp như sao Bắc Đẩu - Ngân Hà
Đồng Mỏ - Cô Mười vào ra
Mẫu khen Cô đẹp nhất tòa Sơn Trang
Cô mười đẹp tựa Hằng Nga
Hằng Nga kém sắc, Tây Thi kém tài
Trên ngàn có một không hai
Khi xưa Cô vốn là người thần tiên
Cô Mười Đồng Mỏ còn đủ tài cầm kỳ thi họa:
Nắng nghe tiếng nhật, tiếng khoan
Cô Mười Đồng Mỏ đánh đàn ca ngâm
Khi gió mát lúc êm trời
Khi Cô dệt lụa, lúc lại quay tơ
Thanh nhàn hái lá đề thơ
Chơi chùa Non Nước lững lờ vào ra
Cô Mười Đồng Mỏ theo hầu Chầu Mười Đồng Mỏ, có công cùng chầu Mười giúp vua Lê đánh giặc Minh và tiêu diệt đội quân của Liễu Thăng. Thần tích về Cô Mười và Chầu Mười rất ít, hầu như không thấy trong các tài liệu
Theo Văn Cô Mười thì Cô Mười là một thánh cô xinh đẹp " Hình dung nhan sắc ai mà dám đương". Cô luôn miệng cười rất gần gữi: "Cô Mười Nhan sắc miệng cười nở hoa". Cô mặc: "Về đồng mặc áo vàng tươi; đai hoa, khăn thắt đúng người Sơn Trang". Vì thế, người đời và Thánh Mẫu đã phải thốt lên:
Cô Mười đẹp tựa sao sa
Cô đẹp như sao Bắc Đẩu - Ngân Hà
Đồng Mỏ - Cô Mười vào ra
Mẫu khen Cô đẹp nhất tòa Sơn Trang
Cô mười đẹp tựa Hằng Nga
Hằng Nga kém sắc, Tây Thi kém tài
Trên ngàn có một không hai
Khi xưa Cô vốn là người thần tiên
Cô Mười Đồng Mỏ còn đủ tài cầm kỳ thi họa:
Nắng nghe tiếng nhật, tiếng khoan
Cô Mười Đồng Mỏ đánh đàn ca ngâm
Khi gió mát lúc êm trời
Khi Cô dệt lụa, lúc lại quay tơ
Thanh nhàn hái lá đề thơ
Chơi chùa Non Nước lững lờ vào ra
Sự tích Cô Mười Đồng Mỏ
Cô Bé Thượng Ngàn là vị tiên cô trên tòa Sơn Trang, theo hầu mẫu Thượng Ngàn. Cô Bé Thượng Ngàn là một tiên cô nổi tiếng rất hay về ngự đồng. Cô Bé Thượng Ngàn có một số đền thờ riêng, nhưng chủ yếu được phối thờ ở các cung hay lầu cô ở các đền phủ.
Cô bé Thượng Ngàn thường được gọi tên theo các địa danh của các đền thờ. Như vậy, có rất nhiều các cô bé trên khắp các cửa rừng. Và mỗi nơi thần tích về các cô bé cũng một khác nhau. Sự khác nhau về thần tích ở mỗi đền cũng là chuyện thường tình bởi thần tích về các cô chủ yếu là truyền miệng. Có thể kể ra dưới đây một vài nơi thờ Cô bé Thượng Ngàn nổi tiếng:
Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê).
Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
Cô Bé Tân An (Lào Cai)
Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
Cô Bé Mỏ Than (Tuyên Quang)
Ngoài ra, Cô Bé Thượng Ngàn còn thờ ở nhiều nơi khác nữa.
Sự tích về Cô Bé Thượng Ngàn tại một số đền thờ
Như trên đã trình bày, các cô bé thờ nơi miền núi rừng đều được coi là Cô Bé Thượng Ngàn. Tuy nhiên mỗi một đền đều có một sự tích về cô rất khác nhau. Tất nhiên các sự tích này đều chỉ là truyền miệng nên tính dị bản rất cao ngay ở mỗi đền chứ chưa nói đến các đền khác nhau. Tựu trung chúng ta có thể coi các nơi thờ khác nhau được coi như một lần giáng sinh của Cô nên thần tích về cô tại mỗi đền đều khác nhau là thế
1. Cô Bé Tân An:
Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy, có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi.
2. Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai quả trứng lạ. Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và cô bé Minh Lương cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.
Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé. Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.
Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo.
3. Cô Bé Mỏ Than( Tuyên Quang)
Truyện chuyền miệng kể rằng : thần Kim Quy thấy mỏ quý của vua cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than. Đã rủ cá Kình ở biển Đông về cùng nhau mang hết mỏ quý ra vùng Nam Hải khi đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, cá Kình đứng gác bên ngoài, thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần miệng hang thì ông Cóc (ở gần miếu Sơn Thần) đã nghiến răng báo lên thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng củ cô Mười xuống. Cô bé cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống thấy khoảng trời u ám có khí lạnh bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa. Bắt rùa hoá đá (Bách gia trăm họ gọi là quy trị bản đền) thần Kim Quy hoá đá thì cà Kình ở biển Đông cũng hoá đá. (Tất cả các cảnh quan của đền quay về nơi phật ngự phương tây riêng có cá Kình quay về phía Đông Bắc). Nhờ Cô Bé Mỏ mà bách gia trăm họ vẫn còn “mỏ tụ đồng” xưa. Đến Pháp tìm ra mỏ than hay còn gọi là vàng đen của đất nước. Hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim cương non. Cho nên ở chính nơi đây còn tồn tại truyền thuyết Cô Bé Mỏ Than (hay Cô Bé Mỏ Cây Xanh). Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, cô xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ và bốn mùa toả bóng mát cho cô hoàn thành việc cha việc mẹ. Ngoài ra cô còn chữa bệnh cho bách gia trăm họ. Nhất là những người dở dại dở điên. Những lúc thư nhàn cô gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát, lúc đi lúc về cổ thường mang sắc thái màu vàng với âm thanh của tiếng chim vàng anh báo biến, báo hiện. Khi cô đi xa cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại (đôi long xà có mào) để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy ông rắn có mào là người đó được lên danh lên giá. Nhưng người đó phải là người thực tâm không có tâm tà. Xưa những người đàn bà bụng mang dạ chửa phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. bất kể ai qua nơi cô ngự đều phải bỏ nón mũ xin cô thực tâm cô phù hộ. Tà tâm cô cho náo loạn gia trung.
Sự tích Cô Bé Thượng Ngàn
Đền Đôi Cô – Cô Đôi Cam Đường còn được người dân gọi với tên khác là đền “Cô Đôi Cam Đường”. Ngôi đền đã tồn tại cách nay hàng trăm năm, gắn liền với truyền thuyết lạ: rằng xưa kia, vùng Lào Cai là nơi buôn bán trao đổi hàng hóa tấp nập giữa miền xuôi và miền ngược, ngày đó có 2 người con gái còn rất trẻ, tuổi độ đôi mươi, quê từ làng Đình Bảng- Bắc Ninh lên buôn bán vải. Hai cô gái thường ở lại khu làng chiềng On để buôn bán trao đổi vải lấy các sản phẩm khác đem về xuôi, tình cảm của dân làng với 2 cô gái rất gắn bó và thân thiết. Bẵng đi một thời gian không thấy 2 cô gái đến nữa, rồi một ngày người làng Chiềng bỗng phát hiện thấy xác 2 cô trôi dạt về làng (nơi đền Đôi Cô ngày nay). Làng Chiềng lập miếu thờ hai cô. Từ đó dân làng làm ăn phát đạt, mùa màng bội thu… tiếng lành đồn xa, không những người dân địa phương mà cả du khách khắp mọi miền cũng về đây thắp hương tưởng nhớ 2 cô gái trẻ tốt bụng luôn phù hộ cho người dân có cuộc sống ấm no, yên bình. Ngày tháng trôi qua, am miếu nhỏ đã được nhiều lần sửa sang trùng tu lại thành đền khang trang hơn gắn với tên gọi là “đền Đôi Cô” như ngày nay.
Người già trong làng còn kể rằng, chính hai cô gái trẻ đó là người thường xuyên vận chuyển hàng hóa vải vóc lên vùng Lào Cai tiếp tế quân lính chống giặc ngoại xâm. Hai cô bị giặc phát hiện giết chết ném xác xuống suối, rồi trôi dạt về làng Chiềng On.
Lễ hội
Cũng giống như những ngôi đền khác, đền Đôi Cô hàng năm cũng có một số ngày lễ hội chính như:
- Lễ tết thượng nguyên tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch.
- Lễ vào hè tổ chức vào ngày 10 tháng 4 âm lịch.
- Lễ ra hè tổ chức vào ngày 10 tháng 7 âm lịch.
- Ngày lễ chính của đền Đôi Cô tổ chức vào ngày 13 tháng 9 âm lịch.
Văn Cô Đôi Cam Đường
Thắp một tuần nhang lòng thành thắp một tuần nhang.
Dâng văn sự tích Cam Đường Tiên Cô.
Gương tần tảo đời đời ghi nhớ.
Chữ thiện tâm ghi tựa vàng son.
Trăm năm bia đá vẫn mòn.
Trăm năm bia đá vẫn mòn.
Cam đường cổ tích miếu đền ngàn thâu.
Đường cam lộ, chợ dầu đình bảng.
Có đôi cô buôn bán tha hương.
Đòn cong túi đẫy dịu dàng.
Đòn cong túi đẫy dịu dàng,
Cam đường cổ tích miếu đền ngàn thâu.
Đường cam lộ chợ dầu đình bảng.
Có đôi cô buôn bán tha hương.
Đòn cong túi đẫy dịu dàng.
Đòn cong túi đẫy dịu dàng.
Ngược xuôi thuận nẻo cam đường chợ xa.
Hai túi đẫy lượt là nhiễu vải.
Lụa tơ vàng , sồi , đũi, hoa trơn.
Hai vai gánh nặng càn khôn.
Hai vai gánh nặng càn khôn.
Tràm xanh linh tía, cau non vải trầu.
Đường xa tắp mà lòng cô không ngại.
Giúp người đời có vải ấm thân.
Niềm tin đồn đai xa gần.
Cô đi tới đâu hoa cười chim hót.
Các bản làng nhẹ gót thanh thanh.
Suối khe đồi núi gập ghềnh.
Suối khe đồi núi gập ghềnh.
Vải tơ đem đến thắm tình ngược xuôi.
Dân đâu đó nhớ người tiên nữ.
Vẻ thanh thanh mắt tựa sao sa.
Hương thơm thơm tóc phượng già già.
Thơm thơm tóc phượng già già.
Hây hây má phấn da ngà lưng ong.
Núm đồng tiền giá trong ngọc khuyết.
Nở nụ cười héo nguyệt hờn hoa.
Cô độ người trên bộ dưới sông.
Thuận buồm xuôi ngược thong dong cô đi về.
Khắp nương bản nhờ uy tế độ.
Ai khẩn cầu phúc thọ tài danh.
Cam đường dựng miếu anh linh.
Sở cầu như nguyện, hữu tình thế gian.
Cô dạo cảnh đông cuông trái út.
Đền bảo hà, mỏi gót lào cai.
Sông thao bẻ lái chèo bơi.
Khi vào đom hán, khi chơi lạng giàng.
Khi chơi cảnh Hà giang bắc lục.
Thú lâm tuyền rừng trúc rừng mai.
Cam đường quả ngọt hoa tươi.
Lẵng hoa cô quẩy trên vai dịu dàng.
Khi ngoạn cảnh hà giang bắc lục.
Thú lâm tuyền rừng trúc rừng thông.
Sự tích cô đôi Cam Đường
Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .
Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .
Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai , có khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đều thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng
Hát văn cô Chín:
Chầu văn hát hầu đồng giá cô Chín:
Gió đưa thoảng ngát hương lan
Trăng soi chín giếng nước vàng long lanh
Hoa đất lạ mệnh án thủy huyền
Đền sòng sơn đất tốt tự nhiên
Cảnh thiên tạo danh truyền Nam Việt
Địa linh nhân kiệt thiên lý lai long
Giếng âm dương leo lẻo nước trong
Thượng lưu để điêu hoa linh thái
Bốn phương đem lại gió mát trăng trong
Thấy cảnh vui Cô Chín hài lòng
Hợp thần tử dăm ba ban cát
Cung cấm quảng ngàn Hằng Nga
Mẫu sai Cô xuống dương gian ngự đồng
Vốn xưa hầu Mẫu Sòng Sơn
Hài hoa hoán ngọc hầu trong lâu đài
Tuổi vừa mười tám đôi mươi
Đôi quạt hầu 36 nan xương
Cô cầm đến quạt Cô lại thương các thanh đồng
Cô Chín quạt cho sóng lặng biển an
Cho trăng sáng tỏ xua tan đám mây mờ
Cô Chín lên trời quạt gió quạt mây
Xuống sông quạt nước
Cô Chín về đây quạt cho các thanh đồng
Gió thu thoảng ngát hương lan
Trăng soi chín giếng nước vàng long lanh
Thanh Hoa sơn thủy hữu tình
Có Cô Chín Giếng anh linh khác thường
Sinh thời hầu cận mẫu vương
Dọn hàng quán mát âm dương núi sòng
Cầm đàn luyện khúc năm cung
Gọi hồn non nước dục lòng thế nhân
Cung thương gió chuyển mây vần
Hồ cầm vọng nguyệt hoa xuân mỉm cười
Sự lòng cố cuốc đầy vơi
Sông thu nước chảy thuyền xuôi ngược dòng
Xế chiều sương tỏa tuyết đông
Công hồ tạm biệt tạ lòng quân vương
Líu lô tiếng vượn gọi bầy
U ơ tiếng dế nỉ non canh trường
Sáng trời gà gáy tan sương
Còn vang khúc nhạc canh trường đầy vơi
Tuy rằng theo mẫu về giời Anh linh
Cô xuất hiện núi đồi Thanh Hoa
Cây xung Cô lấy làm nhà
Cây lan cổ thụ lắm hoa nhiều cành
Đền Cô phong cảnh hữu tình
Đôi bên long hổ đua tranh chầu vào
Linh đường tụ thủy hợp giao.
Sự tích Cô Chín Sòng
Theo một số thuyết nói rằng, Cô Tám là tiên cô giáng thế cùng thời với Cô Bơ Thác Hàn, có huyền tích lịch sử riêng chứ không liên quan gì đến Chầu Bát và cô thuộc Nhạc Phủ chứ không phải thuộc Địa Phủ như mọi người vẫn lầm tưởng. Có một số ý kiến thống nhất rằng, cô giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô cũng có công giúp vua trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm nên khi thác hoá về trời, cô được phong công lập đền thờ, trấn giữ một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục. Cô sinh thời là người con gái đảm đang nết na tần tảo, hái búp chè xanh trên đồi thường dung làm thuốc chữa bệnh nên mọi người thường tôn hiệu là Cô Tám Đồi Chè. Khi thanh nhàn, cô thường đủng đỉnh dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá, cũng có khi cô hiện hình bẻ lái con thuyền độc mộc trên dòng sông Mã.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng, chỉ có người nào sát về Cô Tám hoặc khi hầu đón tiệc tháng 6 tại các đền ở vùng Thanh Hoá. Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh quầy đen ( có nơi là áo tím hoa cà ) . Cô Tám cũng khai quang sau đó múa mồi, sau đó thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non. Hiện nay đền thờ Cô Tám Đồi Chè được thờ riêng tại đền cô thuộc đất Phong Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nếu đi từ đền Cô Bơ sang thì qua đò Lèn, đền cô rất khang trang nhưng ít người biết tới.
Trên Ba Bông dưới lại Thác Hàn,
Ai lên Phong Mục lại sang đồi chè
Đền thờ trướng rủ màn che
Có tiên cô tám hái chè trên non
Lắng nghe chim hót véo von
Có tiên cô tám hái chè non trên ngàn
Lá chè làm thuốc làm thang
búp chè trị bệnh trần gian cô cứu người
Khô cằn cô lại cho tươi
Tay cô vun xới cho đời nở hoa
Đầu non thỏ lặn ác tà
Lẵng hoa cô quảy đường xa đi về
Gập ghềnh trăm suối ngàn khe
Thác Hàn ,Phong Mục lối về Đền Cô
Đồi Chè ,cây thị nhấp nhô
Lối sang Cẩm Thủy lối vô Đò lèn
Minh Tân phố Đò Lèn tên đặt
Phủ Hà Trung là đất Thanh hoa
Có Cô Tám Thượng hay là
Nơi gần kính trọng nơi xa lai hàng
Chốn đền Hàn cô vào khâm mệnh
Mẫu ban quyền cô được quản cai
Vào ra áo thắm thơ bài
Tay đeo vòng bạc chân hài thêu hoa
Cô cất giọng mường giọng mán reo ca
Líu lô giọng thổ ngân nga giọng mèo
Rừng già ,nước chảy suối reo
Cây xanh rẽ lối ,đường đèo quanh co
Ai thời có phúc cô cho
Có tâm cô độ ấm no đời đời
Hôm nay cát nhật lương thời
Sự tích Cô Tám đồi chè
Cô cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô trấn bản đền Lục Cung. Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại, Cô Sáu Lục Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh, cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi hiển thánh, Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh. Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh. Cô Sáu ngự đồng thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác. Hiện nay Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).
VĂN CÔ SÁU LỤC CUNG
Đệ tử con dâng bài văn tấu
Cung thỉnh mời cô Sáu sơn trang
Đền thờ lập ở trên ngàn
Lô xô đá mọc ngổn ngang mấy tầng
Nước suối chảy rì rầm róc rách
Cá lượn mình luồn lách dưới khe
Đền cô cây mọc xum xuê
Lối lên sông Hoá lối về Suối Ngang
Cảnh sơn trang trên ngàn lồ lộ
Lục Cung từ rực rỡ tối linh
Càng thêm nức tiếng thơm danh
Trừ tà trị bệnh cứu sinh cho đời
Tiên cô Sáu vâng lời Mẫu Thượng
Hái thuốc tiên độ lượng nơi nơi
Nón xanh đủng đỉnh bên đồi
Chân quấn xà cạp chiếc gùi trên vai
Thật ưa ngắm đôi tay vòng bạc
Thẳng đường ngôi mườn mượt tóc mây
Da ngà vẻ ngọc hây hây
Môi trầu cắn chỉ vẻ đầy khuôn trăng
Nở nụ cười hàm răng rưng rức
Má hây hây sực nức hương bay
Áo lam ngắn vạt rộng tay
Long lanh đáy nước tóc mai hoa cài
Bước khoan thai lên hầu Mẫu Thượng
Sớ trạng dâng kính ngưỡng tam toà
Mẫu yêu cô Sáu nết na
Khéo cho thập tử gần xa an lành
Cô anh linh trên đời có một
Kẻ gian tà nhất mực không tha
Cô thường luyện ấn canh ba
Canh tư đốt đuốc vào ra cửa rừng
Cất tiếng hú bỗng rừng im bặt
Rước Mẫu về ngự đất trang châu
Mẫu sai cô Sáu theo hầu
Tay cầm nhành quạt đứng hầu một bên
Đức Mẫu Thượng chỉ lên đỉnh núi
Cô vâng lời vượt suối băng ngàn
Đi đâu cầm thú reo vang
Voi quỳ hổ phục bên đàng cô đi
Tiếng tử quy bên đồi gọi bạn
Gà gáy rừng gọi sáng năm canh
Hái hoa trẩy quả vin cành
Ban tài tiếp lộc lấy danh cho đồng
Mời cô lai giáng điện chung
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường
Sự tích Cô Sáu Lục Cung - Cô Sáu sơn trang
Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên, ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân. Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô, nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị cô hành cho sốt nóng mê sảng. Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.
Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng. Khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).
Cô Năm trên động Suối Lân
Xe loan thánh giá đằng vân ngự về
Chơi sơn khê ngàn xanh núi cấm
Ngự tính tình đàn đọc ca ngâm
Vui về thú cảnh Suối Lân
Hoa chen cành biếc mây vần đỉnh cao
Động Sơn trang ra vào sớm tối
Suối Lân Ngàn giá ngự thảnh thơi
Trong rừng dưới suối trên đồi
Thông reo trúc hóa thú vui hữu tình
Thổ mường các chúng sơn tinh
Thỉnh Cô chắc giáng anh linh đàn tràng
Cơm lam thịt thính trà ngàn
Khế chua sung chát trầu vàng cau non
Suối Lân khuya sớm ra vào
Chim kêu vượn hót xôn xao đùa cười
Suối Lân cảnh thú trên ngàn
Có dòng sông Hóa vắt ngang cửa đền
Ai lên đến tỉnh Lạng Sơn
Qua dòng sông Hóa vào đền cô Năm
Quyền cô cai quản Suối Lân
Một tòa chính điện xa gần nức danh
Đền thờ nào khác bức tranh
Dưới suối nước chảy, trên cành cây cao
Đền thờ như thể động đào
Bốn mùa đồng tử ra vào dâng hương
Cô Năm cốt cách phi phương
Trâm cài lược dắt , soi gương chải đầu
Long lanh mắt phượng tựa sao
Thần thông diệu trí biết bao quyền hành
Lê triều tích cũ sử xanh
Cô Năm công chúa rành rành oai linh
Nửa đêm cô mới hiện hình
Suối Lân soi bóng tươi xinh dáng hình
Về đồng cô mặc áo xanh
Nón buồm túi vóc thanh thanh hoa cài
Rườm rà cô vấn tóc mai
Chít khăn củ ấu chân hài cánh tiên
Cô Năm ứng hiện tự nhiên
Ban cho nước suối bệnh liền khỏi ngay
Suối Lân cô ngự thiêng thay
Sơn lâm vui thú tháng ngày rong chơi
Thanh nhàn dạo khắp mọi nơi
Đồng Đăng Hữu Lũng thảnh thơi đi về
Có khi cô ngự Thất Khê
Công Đồng Bắc Lệ lại về Suối Lân
Tiên cô mới thử lòng trần
Ai mà biết đến muôn phần tốt tươi
Còn ai bỡn cợt trêu cười
Lá han cô xát cho người hay ra
Sám hối cô sẽ truyền tha
Bây giờ mới biết cô đà anh linh
Phép cô thưởng phạt nghiêm minh
Có công cô thưởng tội hình không tha
Cô truyền sơn động các tòa
Thổ Mường các bản đàn ca vang lừng
Đầu sông cho đến cửa rừng
Ngàn măng, nương sắn đến từng đồi sim
Ai mà bảy nổi ba chìm
Cô thương lại để trong tâm trong lòng
Còn ai vất vả long đong
Có cô Năm Suối chấm đồng làm tôi
Hoa tươi cô hái trên đồi
Ban cho các ghế muôn người nhất tâm
Người thời có phúc có phần
Có lòng cô sẽ bắc cân cho đều
Hội vui dâng bản văn chầu
Thanh bông hoa quả đảo cầu cô Năm
Cô về ngự cảnh Suối Lân
Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường
Sự tích Cô Năm Suối Lân
Cô vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung , được phong là Thoải Cung Công Chúa, giá ngự vào ra trong Cung Quảng Hàn. Có người còn nói rằng, Cô Bơ là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm. Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.
Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).
Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.
Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn.
Đền cô là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng. Khi thỉnh cô, văn thường hát :
“Hiển danh là bóng Cô Bơ
Lên tâu xuống rộng trong tòa Thoải Cung”
Rồi để ca ngợi tài sắc của Cô Bơ cũng có nhiều đoạn rất hay như:
“Đẹp bằng Nghiêu Thuấn nữ trung
So nên tài sắc tiên cung nào tày
Cô Bơ đàn hát cũng hay
Ngũ âm khéo này năm dây tang tình
Ngự chơi đâu một mình một phủ
Áo khăn hầu sắm sửa dâng ngay
Dâng cô quả nón đôi hài
Dâng gương dâng lược vòng tay quạt ngà
Chấm đồng đâu kể trẻ già
Khắp miền dương thế gần xa tiếng đồn”</b>
Hay cũng có cả đoạn sau:
”Dao vàng cô diếc móng tay
Bút thần cô kẻ lông mày cong cong
Rập rờn nét liễu nằm ngang
Phấn son tô điểm má hồng thiên trung
Thật là tiên nữ thủy cung...”
Sự tích cô bơ thoải, cô đôi thoải
Cô Đôi Thượng Ngàn . Cô vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa, ra vào hầu cận bơ tòa Vua Mẫu trong điện ngọc, nơi tiên cảnh. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm, khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc xanh mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả. Sau này cô quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị. Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục. Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.
Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn cho hàng cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử.
Vì Cô Đôi Thượng hầu cận bên Mẫu Đông Cuông nên đền cô cũng được lập gần Đền Đông Cuông, trong đền thờ Cô Đôi và Cô Bé Đông Cuông, cách đền chính khoảng 500m, trước cửa đền có giếng nước quanh năm trong mát. Nhưng chính đền của cô lại là Đền Cô Đôi Thượng Ngàn tại xã Nho Quan, Ninh Bình (qua rừng quốc gia Cúc Phương) thuộc làng Bồng Lai vậy nên khi cô về ngự, văn thường thỉnh:
“Bồng Lai là cảnh Thiên Thai
Tấu Cô Đôi Thượng đại tài hái hoa
Hầu Vua hầu Mẫu bơ tòa
Tiếng tăm lừng lẫy Vua Bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Lược ngà chải chuốt, khăn xanh vấn đầu
Rong chơi quán Sở Tần lầu
Xa giá lên chầu Thượng Đế Vua Cha
Đệ tử vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng”
Thiên Thai là cảnh bồng lai
Tấu Cô Đôi Thượng đại tài hái hoa
Hầu vua hầu mẫu ba toà
Tiếng tăm lừng lẫy chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Lược ngà chải chuốt vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở tần Lâù
Xe giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đệ tử Cô vô số hằng hà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
(Hầu vua hầu mẫu bơ toà
Vua cha cũng quý, chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Khăn xanh lấy chít vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở Tần lâù
Loan giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đền thờ Cô vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng)
Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thấy cô về ngỡ Phật quan âm (1)
Tay đàn miệng hát ca ngâm
Điểm đa điểm đót tiếng trầm nhặt khoan
Vượn trên non ru con rầu rĩ
Dưới suối ngàn chin năn nỉ véo von
Vui về thú cảnh Đông cuông
Trên ngàn cô thượng ca ngâm chơi bời
Cảnh núi rừng sương rơi lác đác
Thú hữu tình càng ngự càng vui
Ba gian lầu mát thảnh thơi
Sớm rong đỉnh núi tối ngồi sườn non
Ca rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng
Bốn bề hiu quạnh vắng tanh
măng tre măng lứa mọc xanh đầy ngàn
Chắp tay bái lạy cô ngàn
Sơn lâm công chúa giáng đàn chứng đây
Trần gian hồ dễ ai hay
mời cô lai giáng đền này chứng minh
Hiệu cô là công chúa Sơn tinh
mặt tròn vành nguyệt má in phấn hồng
Da cô trắng tựa tuyết đông
tóc dà dà biếc lưng ong dịu dàng
Chân cô đưa nhởn đưa ngang
Bước nào bước ấy tiên nàng nguyệt nga
Chạnh lòng vàng đá người ta
Chau mày quân tử xót xa yêng hùng
Mỗi năm đẹp một não nùng
Dạy chim oanh hót bạn cùng văn nhân
vẻ nào vẻ chẳng thêm xuân
éo le nhiều nỗi thanh tân chơi bời
Tốt tươi miệng nở hoa cười
Đáng xinh đáng lịch đáng người thuyền quyên
nàng ân nàng ái kề bên
Cô Lan cô Huệ chúa tiên thượng ngàn
Non xanh nước biếc suối vàng
Đông cuông cảnh ấy lại càng lâng lâng
có phen cô dạy ngưòi rừng
nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Cô theo hầu Diệu tín thiền sư
Anh linh nổi tiếng Đông Cuông Từ Sơn Lâm
Ngự sơn lâm đông cuông tuần quán
Cô Đôi ngàn vạn phép anh linh
Tiên Cô biến hoá hiện hình
Cung thỉnh các bộ sơn tinh ngự về
Chữ biển đề Đại vương Lê Mại
Phép Khuông phù quốc thái dân an
Thỉnh cô chứng giám đàn tràng
Độ cho đồng tử an khang đời đời
Sự tích cô đôi thượng - Cô đôi thượng ngàn
Quyên Thanh Công Chúa Trần Thị Trinh. Cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương. Cô lấy vua Trần Nhân Tông, trở thành Vương Phi Nhất Phẩm đương triều, danh tiếng bậc nhất nên danh hiệu là: Đệ Nhất Nữ Thần Nương Tiến Cung, sau này cô được vua Trần Nhân Tông gia phong là: Đệ Nhất Khâm Từ Hoàng Hậu Quyên Thanh. Sau này cô đi tu, theo vua Trần Nhân Tông lên Yên Tử, và cô đã cùng với các cung phi khác thác hóa ở chùa Giải Oan, Yên Tử, Quảng Ninh.
Rất hiếm khi có người hầu về Đệ Nhất Vương Cô mà chỉ thỉnh cô tráng mạn (vì cô theo dòng tu ở ẩn trong núi nên hiếm khi ra ngự đồng, thế nên chỉ có một số ít các thanh đồng theo chân tu mới hầu cô). Khi ngự đồng cô mặc áo đỏ (có thể thêu rồng phượng hoặc áo gấm), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), dùng von đỏ thắt dải buộc lên.
Cô thường được thờ cùng với Đức Đại Vương ở trong các đền phủ. Tuy nhiên ở Đền Kiếp Bạc và Đền Bảo Lộc thì cô lại ngồi cận bên tả Đức Vương Phi (hay Vương Phu Nhân của Hưng Đạo Vương). Ngày tiệc của Vương Cô Nhất là 12/1 âm lịch. Khi thỉnh cô, văn thường hát rằng:
“Hoa hải đường thần thông Cô Nhất
Phủ Mạc Thư là đất trâm anh”
Hoặc cũng có khi hát là:
” Đức Thái Hậu ban cho mỹ tự
Đệ Nhất Vương Cô đại nữ Quyên Thanh
Kim chi ngọc diệp rành rành
Cung phi nhất phẩm đương triều ai hơn”
Sự tích Cô Đệ Nhất
Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.
Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.
Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách ... để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:
“Ông Mười trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày”
Hay nói về tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ):
“Gươm thiêng chống đất chỉ trời
Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung
Hai vai nặng gánh cương thường
Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo”
“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Cung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam”
“Chí anh hùng ra tay cứu nước
Đi tới đâu giặc bước lui ngay
Việt Nam ghi chép sử dày
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang”
“Năm cửa ô tới Đô Thành
Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”
Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:
“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Ước cũ duyên xưa có thế thôi”
Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:
“Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”
Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:
“Muối đã mặn ba năm còn mặn
Gừng đã cay chín tháng vẫn cay
Ghế ông tình nặng nghĩa dày
Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng”
“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh
Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”
Sự tích ông Hoàng Mười Nghệ An
Hoàng Đôi (thường gọi tắt là Ông Đôi) hay còn gọi là Ông Triệu Tường: là con trai Đức Vua Cha. Ông theo lệnh, giáng sinh lên cõi trần gian, làm con trai thứ hai nhà họ Nguyễn, sau đó ông trở thành danh tướng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc”, ông là người đã đem quân truy đuổi họ Mạc đến tận đất Cao Bằng, rồi ông được vua Lê phong công, giao cho kéo binh đóng ở đất Tống Sơn, Triệu Tường, Thanh Hóa.
Ông Hoàng Đôi hầu Mẫu ở Đền Sòng và Phố Cát , làm việc thượng ngàn giám sát . Ngài là một trong bốn vị Khâm Sai thay quyền bốn phủ đi chấm lính nhận đồng . Theo truyền thuyết thì ông là người Mán có công đánh giặc bảo vệ dân lành. Trong văn ông Bảy mô tả Ông Hoàng Đôi là người có công đánh trận cùng Ông Hoàng Bảy . Chính vì vậy mà người ta gọi ông Hoàng Đôi là Ông Hoàng Đôi Bảo Hà . Trong văn ông bảy có câu :
"Doanh trung thường có hai hoàng vào ra
Quan Hoàng Bảy Bảo Hà chính vị
Cùng tướng công Đệ Nhị Hoàng Hai
Can qua dâu bể biển dời ..."
Quan Hoàng Bảy Bảo Hà chính vị
Cùng tướng công Đệ Nhị Hoàng Hai
Can qua dâu bể biển dời ..."
Hầu giá Quan Hoàng Đôi
Ngài ngự áo xanh lá cây theo sắc phong bốn phủ, chít khăn mỏ rìu , mặc áo trấn thủ, múa hèo , Sau khi làm lễ khai quang . Ngài đi hèo ngự tọa , hiến tửu , nghe thơ, ban phát tài lộc , Trước đây chỉ những đồng cựu , thủ nhang đồng đền đạo trưởng mới hầu Ngài
Có quan điểm cho rằng trước khi không mấy ai hầu Hoàng Bảy mà chỉ hầu Hoàng Đội , Sau này thì người ta hầu Ông Hoảng Bảy là chủ yếu và ít hầu Ông Hoàng Đôi hơn
Đền thờ ông Hoàng Đôi ( Cẩm Phả )
Đền thờ ông Hoàng Đôi ở Cẩm phả là đền tư , còn gọi là Đền Hoàng Đôi Bảo Hà , vì đền này rước ông Hoàng Đôi từ bảo Hà về thờ, Thủ nhang lập ra ngôi đền tư này là cụ đồng Nhâm
Sự tích ông Hoàng Đôi
Đền Bảo Hà là Đền thờ Ông Hoàng Bảy được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Vì thú chơi phong lưu của ông nên nơi ông ngự còn được mệnh danh là Trái Hút Bảo Hà)
Truyền thuyết kể lại:
Vào cuối thời Lê (Niên hiệu Cảnh Hưng 1740 - 1786 ), ở khắp vùng Phủ Quy Hoá, nhất là Châu Thủy Vỹ và Châu Văn Bàn luôn bị giặc cướp ở Vân Nam - Trung quốc tràn sang cướp phá. Trong tác phẩm "Hưng Hoá xứ phong thổ lục" của Tiến sĩ Hoàng Bình Chính viết năm 1778 ghi rõ: "Khắp vùng loạn lạc, dân cư điêu tàn, ruộng đất bỏ hoang ..." . Trước tình hình đó Triều đình cử danh tướng thứ bảy họ NGUYỄN lên trấn thủ vùng biên ải, tiến dọc theo sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành một căn cứ quân sự lớn bảo vệ biên cương Tổ quốc. Tại đây Ông tổ chức thành các Thổ Ty, Tù trưởng, luyện tập cho quân sĩ. Ông làm Thống lĩnh cho cả quân Thủy, Quân Bộ tiến đánh lào cai, đuổi quân giặc chạy sang vùng Vân Nam.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Bảo Hà có một vị trí quan trọng phòng thủ biên giới, là cửa trạm của phòng tuyến sông Hồng phía Tây Bắc. Từ đời nhà Trần đã đặt hai cửa trấn ải là cửa quan Bảo Thắng và Bảo Hà, trong đó Bảo Hà là hậu cứ của Bảo Thắng. Tại đây có đài hoả hiệu, trạm liên lạc thông tin cho các châu huyện phía dưới. Giữa niên hiệu Cảnh Hưng, Bảo Hà là trung tâm Châu Văn Bàn. Trong thời kỳ này, bọn giặc phương Bắc thường hay quấy nhiễu, xã Khấu Bàn, châu Văn Bàn đã phải xây dựng các thành luỹ chống giặc.
Sau khi giải phóng Phủ Quy Hoá, Ông chiêu dụ các Thổ hào địa phương, đón người Dao, người Thổ và đặc biệt là người Nùng áo xanh tới khẩn điền, khai mỏ xây dựng quê hương. Với công đức và chi khí dũng cảm chống giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, nhiều truyền thuyết dân gian đã ca ngợi Ông, Nhân dân tạc dạ ghi công Ông cho ngàn đời sau. Trong một trận chiến đấu không cân sức với quân xâm lược phương Bắc, viên Tướng thứ Bảy của Triều đình đã anh dũng hy sinh. Xác của Ông trôi theo dòng nườc sông Hồng tới Bảo Hà (Nơi ngôi Đền hiện nay thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng ngậm ngùi thương nhớ, đưa xác Ông chôn cất tại đây và lập Đền thờ để tưởng nhớ công tích của một người anh hùng. Các Triều Vua Minh Mệnh, Thiệu Trị đã phong tặng Ông danh hiệu "Trấn an Hiển Liệt", các Triều nhà Nguyễn sắc phong cho Ông là: Thần Vệ Quốc".
Ngày 17/7 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Ông, nhân dân trong vùng náo nức mở Lễ hội. Khắp nơi trong nước đến viếng Ông và cầu xin Ông phù hộ cho ăn nên làm ăn, phát tài, phát lộc.
Ngày 5/11/1997 Đền Bảo Hà được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. (Viết theo Phiếu ghi công đức Đền Bảo Hà).
Văn khấn ông Hoàng Bẩy
Gió nam thoảng đưa hương bay ngào ngạt
Bóng ác tà đã gác non tây
Trăng in mặt nước vơi đầy
Bảo Hà có tích xưa nay còn truyền
Quan Hoàng Bảy trần miền Băc địa
Hợp binh hùng lục thuỷ Thao Giang
Quân cơ mưu lược luận bàn
Doang trung thường có hai hoàng vào ra
Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà chính vị
Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Hai
Can qua dâu bể biến dời
Anh hùng xưa đã ra người cung tiên
Nhớ công đức lập đền phụng sự
Thổ,Mán ,Nùng tiên nữ dâng hoa
Thú vui điếu khách bàn trà
Phong lưu thuốc cống Bảo Hà dâng ông
Hoàng hoa tửu khăn hồng gối xếp
Ngự tính tình phong nguyệt hoạ ca
Nhắn ai lên đất Bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên
Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích
Quan Bảo Hà thực đích trung quân
Sinh thời làm tướng trung thần
Tấc lòng yêu nước thương dân hãy còn
Dẫu bể cạn non mòn cũng quyết
Thử ra tài cho biết oai danh
Bao phen lẫm liệt tung hoành
Định an xã tắc đề binh cõi ngoài
Đất Lào Cai là nơi dụng võ
Quyết ra tay đội ngũ tiến công
Biên cương súng nổ đùng đùng
Sa trường sương núi máu sông chẳng nề
Đem quân về Thất Khê phòng thủ
Đền Bảo Hà lạc thú huê viên
Mãn tuần chiếu hạc hồi thiên
Tấm thân thoát lánh nghiệp duyên cõi trần
Bỗng một trận sầu vân ám kết
Hiện chân hình dạo Bắc hết Nam
Vui cùng nước biếc trăng ngàn
Tót tươi quả lạ trăng vàng đìu hiu
Độ dân xã ngày Nghiêu tháng Thuấn
Cõi Việt Nam Bắc trấn oai danh
Từ bi cải dữ làm lành
Chọn ngươi nữ tú nam thanh chấm đồng
Kẻ xuôi ngược dưới sông trên bộ
Ai khẩn cầu tế độ thì qua
Hoàng về trắc giáng điện toà
Hộ trì đệ tử vinh hoa thọ trường.
Giới thiệu về Đền Bảo Hà thờ Quan Hoàng Bẩy
Đền Bảo Hà (Đền thờ Thần vệ Quốc Hoàng bẩy), cách Thủ đô Hà nội khoảng 350 Km, cách Tp. Lào Cai khoảng 60km về phía nam; cách ga xe lửa Bảo Hà khoảng 800m.Hiện nay đường tương đối dễ đi, các lái chỉ cần lưu ý là cung đường này có rất nhiều cua tay áo với những vách tà luy cao và những vực sâu hun hút hàng trăm mét. Từ Hà Nội, bạn đi Lào Cai bằng Tàu hỏa rồi từ Lào Cai đi ô tô hơn trăm km nữa mới tới. Bạn nào có xe ô tô riêng, nên đi theo đường Sơn Tây, qua cầu Trung Hà, Thanh Sơn khoảng 50Km rồi đi theo đường ven sông Hồng lên tới Phố Ràng rẽ trái là bến Bảo Hà.
Kiến trúc đền Bảo Hà thờ ông Hoàng Bẩy:
Đền Bảo Hà được xây dựng ngay chân đồi Cấm, bên bờ sông Hồng, thuộc xã Bảo hà - Huyện Bảo Yên – Tỉh Lào Cai. Đền được xây dựng với lối kiến trúc đơn giản không cầu kỳ nhưng vẫn có nét đẹp chữ tình.
Đền Bảo Hà có lưng tựa vào núi, mặt hướng theo dòng nước sông Hồng và nơi đây còn có sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên với kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo thuyết phong thủy.
Đền được xây dựng gồm: cổng tam quan, sân đền, nhà khách, phủ chúa Sơn Trang, Toà đại bái, Cung cấm, Cung nhị, Cung công đồng với diện tích, bài trí các pho tượng khác nhau. Trong các cung thờ chính của đền có các pho tượng: Đức Thánh Trần, Đức Vua Cha, Quan Tuần Tranh, ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Đông quan Bơ phủ, Mẫu Nhị, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thuỷ Tiên, Thiên Phúc Thiên